Page 116 - Bìa kỷ yếu
P. 116
- Kết quả học tập học kì, năm học, khóa học được hệ thống xử lí và ghi nhận trên hệ
thống theo mã định danh của người học.
- Sinh viên đủ điều kiện tốt nghiệp sẽ được hệ thống cấp bằng tốt nghiệp (bản số), có chữ
kí số của hiệu trưởng và đóng dấu số của cơ sở đào tạo. Do vậy, Nhà trường cần hoàn thiện (hiện
nay bước đầu đã có) phát triển hệ thống quản lí người học để quản lí toàn bộ quá trình học tập
của sinh viên. Hệ thống cần đảm bảo bảo mật, an toàn thông tin cá nhân trên môi trường số. Việc
làm của người học sau khi tốt nghiệp là một trong các yếu tố đầu ra thuộc quá trình đào tạo của
các cơ sở giáo dục đại học. Việc hỗ trợ việc làm cho sinh viên và giữ mối quan hệ với cựu sinh
viên góp phần quan trọng trong việc tạo dựng thương hiệu nhà trường, thu thập ý kiến phản hồi
về mục tiêu, chuẩn đầu ra, nội dung chương trình, chất lượng đào tạo để kịp thời điều chỉnh phù
hợp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Mục tiêu của các cơ sở giáo dục đại học là đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội. Nghĩa là,
người học sau khi tốt nghiệp có việc làm, nhất là việc làm đúng ngành đào tạo. Hơn nữa, người
học được tuyển dụng có thể đáp ứng tốt yêu cầu công việc của đơn vị sử dụng lao động và có
khả năng phát triển. Đây là những chỉ số khẳng định chất lượng đào tạo, góp phần khẳng định
thương hiệu của cơ sở giáo dục đại học.
Trong bối cảnh tốc độ phát triển xã hội, sự thay đổi về công nghệ diễn ra nhanh chóng
như hiện nay để người học có việc làm, đáp ứng yêu cầu công việc và có khả năng phát triển đòi
hỏi chương trình đào tạo của cơ sở giáo dục đại học phải được xây dựng, cập nhật thường xuyên.
Do đó, cơ sở giáo dục đại học cần có thông tin đánh giá về sự phù hợp giữa chương trình đào tạo
và nhu cầu xã hội. Cựu sinh viên là nguồn cung cấp thông tin này hiệu quả, tin cậy. Để có thể hỗ
trợ việc làm cho sinh viên, các cơ sở giáo dục đại học cần có thông tin về nhu cầu tuyển dụng
của các doanh nghiệp, các đơn vị sử dụng lao động theo từng vị trí việc làm, từng ngành đào tạo.
V. Kết luận
Có thể nói, trong giáo dục đào tạo, chuyển đổi số là chuyển đổi toàn bộ những gì cần để
có thể triển khai giáo dục trực tuyến thì điều này đã và đang được Trường Đại học Mở Hà Nội tổ
chức thực hiện tốt. Mặc dù không có một công thức dành riêng cho quá trình này, nhưng hoàn
toàn có thể vận dụng các khung đánh giá hiệu quả giáo dục cũng như các khung đảm bảo chất
lượng giáo dục để định hướng quá trình chuyển đổi. Đặc biệt “cuộc cách mạng” này đã được
Đảng ủy, Ban giám hiệu Trường Đại học Mở Hà Nội xây dựng và phát triển, nhất quán, thể hiện
trong “Chiến lược phát triển Trường Đại học Mở Hà Nội” là tầm nhìn 2035 “Trường Đại học
Mở Hà Nội trở thành đại học hàng đầu về giáo dục, đào tạo mở, từ trong trong hệ thống giáo dục
quốc dân Việt Nam”. Điều này rất quan trọng vì vai trò lãnh đạo, tổ chức, điều phối, huy động
nguồn lực cấp hệ thống sẽ là then chốt quyết định hình hài của giáo dục mới. Bên cạnh việc
hướng đến đảm bảo hiệu quả giáo dục, cơ hội tiếp cận giáo dục bình đẳng cho mọi đối tượng
người học, kể cả học sinh nghèo và khuyết tật, để không ai bị bỏ lại phía sau là một mục tiêu
quan trọng mà chuyển đổi số tại Trường Đại học Mở Hà Nội đang hướng tới.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Cập nhật các bước chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo mới nhất 2024.
[2]. Truy cập:
https://fsivietnam.com.vn/5-cach-chuyen-doi-so-tac-dong-den-nganh-giao-duc-21656/
.
Tạp chí khoa học công nghệ số ra ngày 16/08/2022
[3]. TS. Bùi Thị Huế, TS. Bùi Đức Thịnh, TS. Vũ Thị Tuyết Lan, Chuyển đổi số trong giáo
dục và đào tạo: Thực trạng và Giải pháp. Trường Đại học Lao động - Xã hội. Truy cập:
114